Monday, August 1, 2011

Giờ Thứ 25

*****

Từ sau ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, hằng ngày, trước đầu giờ và sau cuối giờ làm việc, tôi thường lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên để theo dõi và trao đổi tình hình. Qua câu chuyện trao đổi mang tính cách tâm tình với nhau hơn là Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. 

Xin mời quí vị quí bạn vui lòng trở lại ngày 27 tháng 4 năm 1975 trước khi vào giờ thứ 25. Tại tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu, đã hết giờ làm việc buổi chiều từ lâu, tôi vẫn còn ngồi trong văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, nghe ông tâm sự:

“Anh biết không, Thiếu Tướng Smith nói với tôi là cấp chỉ huy của ông ta từ Pentagon (lầu năm góc, tức Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ) nói ổng đang ủng hộ một Trung Tướng cộng sản ngay tại Sài Gòn”.

“Ông ta muốn ám chỉ Trung Tướng phải không?

“Tôi cũng nghĩ vậy”.

“Trung Tướng có nói gì không?

“Không”.

“Đến lúc này, Trung Tướng có quyết định ra đi chưa?

Tôi hỏi như vậy là vì lúc sáng, Y Sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh, Cục Trưởng Cục Quân Y, lên hỏi thăm tình hình, Trung Tướng Khuyên yêu cầu Chuẩn Tướng Thanh cho ông 2 chai thuốc độc, và tôi cũng xin 2 chai (1 chai để trong túi và 1 chai trong cặp xách tay). Khi ông xin thuốc độc, điều đó cho thấy có thể là ông không bỏ chạy, hoặc xin thì xin nhưng chạy vẫn chạy. Nhưng tôi nghĩ, ít ra thì Trung Tướng Khuyên đang có hai giải pháp trong đầu. Im lặng một lúc, chừng như ông đang xúc động nên lời nói của ông thật nhỏ:

“Tôi đã hứa với ổng (tức Thiếu Tướng Smith), vì tôi cảm thấy sẽ không an toàn nếu như tôi khước từ di tản”.

“Thiếu Tướng Smith có nói bao giờ thì đi không, thưa Trung Tướng?

“Ổng được lệnh từ Pentagon là sẽ đưa tôi đi”.

“Thiếu Tướng Smith có nói là sẽ đi vào lúc nào không Trung Tướng?

Trung Tướng Khuyên buông thỏng: “Giờ thứ 25”. 

“Ổng có nói với Trung Tướng giờ đó là giờ nào không?

“Giờ đó sẽ được quyết định từ Pentagon”.

Sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tổng Thống Dương Văn Minh cho phổ biến bản tuyên bố trên đài phát thanh Sài Gòn, theo đó thì Tổng Thống yêu cầu Hoa Kỳ lập tức rút toàn bộ các cơ quan và nhân viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa.

Ngay sau bản tin ngắn ngủi nhưng rất quan trọng đó, từng đoàn trực thăng của Hải Quân Hoa Kỳ vào Sài Gòn, chuyên chở những người "di tản" ra Hạm Đội 7 ngoài khơi Vũng Tàu. Bãi đáp chính của trực thăng là khu vực Văn Phòng Tùy Viên Quốc Phòng Hoa Kỳ ở Tân Sơn Nhất, và bãi đáp trên sân thượng tòa đại sứ Hoa Kỳ, tọa lạc bên trái đại lộ Thống Nhất (từ Dinh Độc Lập nhìn về hướng Thảo Cầm Viên).

Tôi xin dừng ở đây để thuật tiếp phần cuối của câu chuyện ngắn (phần đầu tôi đã thuật trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963) do cựu Đại Tá Nguyễn Linh Chiêu kể cho các bạn trong bữa ăn tại nhà ông ở Orange County, Nam California, vào ngày 15 tháng 11 năm 1991. Hôm ấy, tôi là một thực khách trong số đó. Chuyện mà cựu Đại Tá Chiêu kể lại là nhân chuyến ông sang Paris đầu năm 1991, ông có mời cựu Tổng Thống Dương Văn Minh và cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn dùng cơm, để giúp giải tỏa mối bất hòa giữa hai vị mà cả hai vị đều là bạn thâm giao của cựu Đại Tá Chiêu. Trong toàn bộ câu chuyện ngắn đó có đoạn cựu Đại Tá Chiêu hỏi cựu Tổng Thống Dương Văn Minh:

“Tại sao anh mới nhận chức Tổng Thống mà anh ra lệnh đuổi Mỹ về nước?

"Moa" không đuổi Mỹ. Bản văn  đuổi Mỹ là do Đại Sứ Martin (Hoa Kỳ) đưa cho "Moi" và yêu cầu "Moi" phổ biến”. 

 

Phần cuối câu chuyện chỉ có thế, nhưng nó cho thấy Hoa Kỳ đã "an bài chiến tranh chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa chúng ta" đến tận cùng chi tiết. Vì vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi bản văn "đuổi Mỹ" vừa phát đi trên làn sóng đài phát thanh Sài Gòn, thì từng đoàn trực thăng Hoa Kỳ thuộc Hạm Đội 7 của họ từ ngoài khơi Thái Bình Dương, ào ào vào Sài Gòn, cứ như các trực thăng đó túc trực ứng chiến trên đường bay của Hàng Không Mẫu Hạm vậy. Thậm chí đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất và tòa đại sứ từ nửa đêm 28 rạng 29 tháng 4 năm 1975, để bảo vệ cuộc vận chuyển di tản. Các sự kiện đó đã xác định rõ ràng chớ không phải ngẫu nhiên. Ngôn ngữ chính trị là như vậy mà. Nghe vậy, nhưng không phải vậy, mà đôi khi cũng có thể là như vậy.   

Vẫn sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, như những ngày trước đó, tôi lên văn phòng Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, để theo dõi tình hình, vẫn chưa nghe ông nói gì về giờ thứ 25 mặc dù Tổng Thống đã chánh thức yêu cầu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa trong vòng 48 tiếng đồng hồ!

Trở về văn phòng, đứng ở lan can ngay trước văn phòng tôi, nhìn sang bãi đáp bên kia hàng rào kẽm gai ngăn cách giữa khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu với một góc của khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất. Từng chiếc trực thăng hạ cánh rồi cất cánh với đầy người chen chúc bên trong, một vài chiếc có cả người còn tòn teng ở càng chân trực thăng chớ chưa vào được bên trong. Lúc ấy tôi liên tưởng đến tấm ảnh với ghi chú ngắn trên những nhật báo phát hành tại Sài Gòn ngày 18 và 19 tháng 4 năm 1975. Tấm ảnh đó chụp lúc những giới chức của quốc gia Cam Bốt, đang chen lấn lên trực thăng Hoa Kỳ để di tản khỏi quê hương của họ, vì quân cộng sản đang tiến chiếm thủ đô Nam Vang (Phnom Penh). Nghĩa là họ thua trận trước Việt Nam Cộng Hòa, nhưng họ hơn ta ở điểm là họ còn chống giữ thủ đô Nam Vang được vài tuần. Câu ghi chú rằng: "Những người Cao Miên đứng bên ngoài rào, trông họ rất thản nhiên khi nhìn cái cảnh trốn chạy của những người từng lãnh đạo đất nước họ ...". Thật lòng mà nói, lúc ấy tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì khi trông thấy cảnh tượng như vậy diễn ra ngay trước mắt! Có vẻ như tôi chưa sẳn sàng chấp nhận hình ảnh đó là sự thật trong cuộc đời, mặc dù nó đang xảy ra trước mắt tôi!

Không biết có phải là khi một người có những suy tư lo nghĩ trong một mức độ nào đó thì họ còn kiểm soát được, có nghĩa là họ vẫn còn suy tư lo nghĩ, nhưng khi điều suy tư lo nghĩ vượt quá mức kiểm soát  thì họ trở nên bình thản trước sự việc chăng? Nếu trong khoa tâm lý và khoa dịch lý có nói đến trường hợp như vậy, thì tôi đang trong tình trạng vượt quá mức kiểm soát đó. Đứng nhìn cấp trên tôi và các đồng đội tôi đang bỏ chạy mà tôi không biết tôi đang nghĩ gì và phải làm gì nữa!    

 Trong khi cảnh di tản bằng trực thăng trong khuôn viên phi trường Tân Sơn Nhất ở phần đối diện với khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu vẫn diễn tiến, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đẩy cửa vào phòng tôi, nhưng tôi bận điện thoại cung cấp nhiên liệu cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh đã từ Biên Hòa rút về Gò Vấp. Thấy tôi bận, ông quay trở ra và sang phòng vệ sinh. Điện thoại xong, tôi ra đứng cạnh lan can chờ ông. Dĩ nhiên là khi trở ra, Trung Tướng Khuyên trông thấy tôi, ông đi ngang tôi, rồi đi thẳng đến xe Jeep cách tôi chừng 5 bước. Ông lên xe, nhìn thẳng phía trước, và im lặng. Chưa bao giờ tôi thấy thái độ của ông như vậy, do vậy mà tôi nghĩ: "Phải chăng giờ thứ 25 bắt đầu?".

Ông không nói một tiếng nào trong khoảng 5 phút. Ông ra hiệu bằng tay, anh Hạ Sĩ Quan tài xế cho xe lăn bánh. Tôi đứng thẳng người, đưa tay lên trán, chào ông, rồi khoa tay từ biệt để ông hiểu là tôi đoán được chuyện gì đang xảy ra. Nếu tôi không lầm, thì Trung Tướng Khuyên sẽ rất xúc động nếu như ông nói với tôi bất cứ lời nào, vì vậy mà tôi không chút phiền muộn đối với Trung Tướng Đồng Văn Khuyên cho dù ông đã không một lời từ biệt, một lời từ biệt với biết bao nguy hiểm cho người đi lẫn người chưa đi!

Lúc đó là 11 giờ 30 phút sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, và tôi xem đây là giây đầu tiên trong 3.600 giây của Giờ Thứ 25!

Khoảng hai tiếng đồng hồ sau đó, Thiếu Tá Tấn, sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, điện thoại tôi:

“Trình Đại Tá, Trung Tướng đã vào gặp Thiếu Tướng Smith rồi”.

“Anh đang ở đâu vậy?

“Tôi đang ở nhà tôi”.

“Ủa, anh không đi sao?

“Dạ không Đại Tá”.


“Anh có thể  cho tôi biết là sau khi rời chỗ tôi thì Trung Tướng đi những đâu không?

“Rời văn phòng Đại Tá, Trung Tướng hướng dẫn tài xế lái xe trên nhiều con đường trong Tổng Tham Mưu, rồi ra cổng số 3 (cổng số 3 ra đường Võ di Nguy) và quanh vào cổng sau phi trường. Tại đây có sĩ quan tùy viên của Thiếu Tướng Smith đón và hướng dẫn vào. Đi được một khoảng thì lính gác Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ gọi tôi lại, bảo tôi tháo khẩu súng lục để lại cổng. Đi bộ vào đến Văn phòng Tùy Viên Quốc Phòng thì Thiếu Tướng Smith đứng chờ ở đó, cả hai ông vào văn phòng, tôi chào Trung Tướng rồi trở về nhà”.  

“Anh trông thấy nhiều người trong đó chớ?

“Đông lắm Đại Tá ơi! Đông nghẹt người lận”.

“Cám ơn anh, và mong là anh em mình còn liên lạc nhau được ngày nào mừng ngày ấy thôi. Chào anh nhé”. 

Vậy là, quí vị lãnh đạo đất nước Việt Mam vừa bàn giao chức vụ lãnh đạo quốc gia lẫn quí vị đương kiêm chức vụ lãnh đạo quân đội, đã lần lượt "rời bỏ Việt Nam" gần như theo hệ thống quân giai cho dù là hệ thống quân giai ngẫu nhiên cũng vậy:

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, vị Tướng đã hai lần đặt tay lên Hiến Pháp tuyên thệ "bảo vệ quốc gia dân tộc, bảo vệ Hiến Pháp" khi nhận chức Tổng Thống và Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội, lên phi cơ đi ngoại quốc!

 

Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, hơn 5 năm trong chức vụ Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng,  lên phi cơ đi ngoại quốc!

 

Đại Tướng Cao Văn Viên, vị Tổng Tham Mưu Trưởng  Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 15 tháng 10 năm 1965, lên phi cơ đi ngoại quốc!

Đầu giờ thứ 25, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, cũng lên phi cơ đi ngoại quốc!

Và khi vị Tổng Tham Mưu Trưởng và Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, rời bỏ chức vụ để "đi ngoại quốc", thì quí vị Tướng Lãnh cùng nhiều vị Trưởng Phòng của Bộ Tổng Tham Mưu, cũng ra đi!  

Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa lúc 12 giờ trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975, không còn một vị nào có thẩm quyền quyết định bất cứ vấn đề gì hết, ngay cả công tác phòng thủ trại Trần Hưng Đạo -tức Bộ Tổng Tham Mưu- cũng không ai trách nhiệm nữa. Quân nhân và công chức quốc phòng của Bộ Tổng Tham Mưu trên dưới 2.000 người, không còn cấp chỉ huy, nên họ đành phải quyết định: Tự động tan hàng!

Tôi điện thoại cho Đại Tá Nguyễn Hồng Đài (con rể của Tổng Thống Dương Văn Minh), nguyên là Chánh Sở Kế Hoạch/ Tổng Cục Tiếp Vận biệt phái về Phủ Tổng Thống:

“Anh Đài. Anh vui lòng trình với Tổng Thống là cho đến lúc này, trong Bộ Tổng Tham Mưu không còn vị Tướng Lãnh nào hết, cũng không ai trách nhiệm bảo vệ bản doanh Tổng Tham Mưu nữa. Tôi trình xin Tổng Thống cử người vào chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng và Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Nếu hôm nay không có vị nào vào đây thì bộ tham mưu nhẹ của Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi sẽ sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc, vì khách hàng mà tôi yểm trợ chỉ còn Biệt Khu Thủ Đô và một phần lực lượng của Quân Đoàn III thôi”.

“Được rồi, tôi trình "Ông Già" ngay và sau đó sẽ điện thoại anh”.

Một lúc sau, Đại Tá Đài gọi tôi:

“Ông Già" cho biết, lúc 3 giờ chiều nay sẽ có phái đoàn Tướng Lãnh vào nhận chức trong Bộ Tổng Tham Mưu. Anh yên tâm”.

Lúc 2 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, tôi mời các vị Cục Trưởng Cục Phó, Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân, Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận, đến họp gấp. Kiểm điểm lại chỉ còn Cục Trưởng Cục Quân Y (Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh), Cục Trưởng Cục Quân Vận (Đại Tá Nguyễn Tử Khanh), Cục Phó Cục Quân Nhu, Cục Phó Cục Công Binh, Cục Phó Cục Quân Cụ, Cục Phó Cục Truyền Tin, Cục Phó Cục Quân Tiếp Vụ, và Cục Phó Cục Mãi Dịch. Tôi vào đề ngay:

“Trong trách nhiệm Tham Mưu Trưởng/Tổng Cục Tiếp Vận, tôi xin thông báo đến quí vị và các bạn về tình hình chung và tình hình nội bộ Tiếp Vận của mình. Về tình hình chung, hiện nay theo Phòng 2/Bộ Tổng Tham Mưu thì có khoảng 10 sư đoàn quân cộng sản bao quanh Sài Gòn và chúng đang áp sát ven ngoại ô. Điều đó cho phép dự đoán là chúng có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào mà chúng cho là thuận lợi. Về lực lượng phòng thủ của ta thì không có đơn vị nào nguyên vẹn, kể cả Nhẩy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Ngay cả Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân mới thành lập với Đại Tá Nguyễn Văn Lộc giữ chức Tư Lệnh, Đại Tá Vũ Phi Hùng làm Tư Lệnh Phó, và Đại Tá Cao Văn Ủy làm Tham Mưu Trưởng, cũng chỉ là sự kết hợp gấp rút các Liên Đoàn Biệt Động Quân  cùng với vài đơn vị Pháo Binh và Thiết Giáp còn lại thôi. Về nội bộ Tiếp Vận, thì Trung Tướng Tổng Cục Trưởng và gần hết các sĩ quan cao cấp trong Tổng Cục Tiếp Vận, đã tự động rời khỏi nhiệm sở rồi. Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Tiếp Liệu Lục Quân và Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Điện Toán Tiếp Vận, cũng thế. Còn tại các Cục, tôi nghĩ là các bạn biết rõ hơn tôi. Thông báo một tình hình như vậy, tôi muốn quí vị và các bạn tùy nghi vì tôi không có thẩm quyền về bất cứ vấn đề gì vượt quá trách nhiệm và quyền hạn của người Tham Mưu Trưởng Tổng Cục. Tôi có bấy nhiêu lời, và nếu không có điều gì cần hỏi, tôi xin chào quí vị, chào các bạn, vì trong chúng ta không ai biết được những gì sẽ chợt đến với mình trong những ngày tháng sắp tới -  

Sở dĩ phải nói lời chào ngay vì tôi thấy Đại Tá Nguyễn Tử Khanh có vẻ như muốn rời phòng họp. Quả thật, hơn tiếng đồng hồ sau đó, Đại Tá Cao Văn Phước, Cục Phó Cục Quân Vận cho tôi biết là Đại Tá Khanh đã vội vã xuống Giang Đoàn Vận Tải và đi rồi.   

Lúc 3 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975, Trung Tướng Vînh Lộc -đã một thời là Tư Lệnh Quân Đoàn II, rồi Chỉ Huy Trưởng Trường Cao Đẳng Quốc Phòng- vào nhận chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhận chức Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu. Và một vài Đại Tá nhận chức Trưởng Phòng. Đại Tá Nguyễn Khắc Tuân, chánh văn phòng Trung Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.

Đại Tá Tuân gọi tôi lên trình diện Trung Tướng tân Tổng Tham Mưu Trưởng:

“Chào Trung Tướng”.    

“Chào anh. Những vị Tướng cầm quyền đã chạy hết rồi. Bây giờ chúng mình hãy cùng nhau cố gắng nhiệm vụ trọng đại của Quốc Gia. Vào giờ phút lâm nguy này mới thấy được giá trị của mỗi người như thế nào đối với Tổ Quốc”.

“Thưa Trung Tướng, giờ này tôi có mặt ở đây và đang trình diện Trung Tướng, trong khi các cấp chỉ huy trên tôi đã rời khỏi nhiệm sở, và các cấp chỉ huy dưới tôi cũng vậy, có nghĩa là tôi vẫn tiếp tục trách nhiệm của tôi, thưa Trung Tướng”.

“Nhiệm vụ yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị phòng thủ Sài Gòn, tôi trông cậy vào anh”.

“Vâng. Tôi đã và đang làm tất cả những gì thuộc về trách nhiệm của tôi, và tôi vẫn tiếp tục như vậy. Và nếu không có vị nào khác thì xin Trung Tướng cử Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức vào chức vụ Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, vì tôi được biết Chuẩn Tướng Chức sẳn sàng nhận chức vụ này, thưa Trung Tướng”. 

“Anh sẽ có vị Tổng Cục Trưởng ngay hôm nay”. 

 

“Vâng. Chào Trung Tướng”.

Lúc 5 giờ chiều 29 tháng 4 năm 1975, Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Chức, trước là Cục Trưởng Cục Công Binh, kế đến là biệt phái sang phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách khẩn hoang lập ấp, đến nhận chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Một chức vụ mà Chuẩn Tướng Chức đã hơn một lần tự ông đề nghị thẳng với Trung Tướng Khuyên đề nghị lên cấp trên bổ nhậm ông vào đó. Chuẩn Tướng Chức, trong thời gian sinh hoạt trong "Nhóm Đời Mới" -tôi cũng là một thành viên trong Nhóm- của cụ Trần Văn Ân, có lần nói với tôi rằng "lên đến Tướng là phải hoạt động chính trị và ông cũng nói thẳng là ông muốn nắm giữ chức vụ cao hơn là Cục Trưởng nếu vẫn phục vụ trong quân đội, vì ông tự thấy khả năng của ông như vậy, và đó mới là tương lai sự nghiệp của ông. Chuẩn Tướng Chức là người rất hoạt động, khi ông tham gia công tác với đơn vị Công Binh của ông thì ông làm nhiệt tình như bất cứ người lính Công Binh nào, và trong những trường hợp như vậy ông rất thích được  phóng viên báo chí tiếp xúc. Chuẩn Tướng Chức là mẫu người rất nhiệt tình trong trách nhiệm, và ông cũng rất muốn được xuất hiện trong sinh hoạt chính trường. 

Tôi trình bày tình hình chung và tình hình riêng của ngành Tiếp Vận như đã cung cấp  cho các vị chỉ huy Tiếp Vận trong buổi họp ngắn ngủi lúc 2 giờ, và tình hình yểm trợ Tiếp Vận cho các đơn vị chiến đấu. Chuẩn Tướng Chức viết tay lệnh bổ nhiệm Đại Tá Trần Văn Lễ (đang là Chỉ Huy Trưởng Trường Tiếp Vận) trở lại chức vụ Cục Trưởng Cục Quân Tiếp Vụ. Các vị Cục Trưởng đã bỏ nhiệm sở thì ông cử các vị Cục Phó giữ chức Quyền Cục Trưởng.

“Bây giờ xin phép anh tôi về nhà dùng cơm rồi trở lại ngay. Trong thời gian đó nếu có đơn vị nào xin yểm trợ thì anh bảo họ điện thoại cho tôi và tôi giải quyết”.  

“Được rồi, anh về đi.  Anh có cần xe mở đường không vì đường phố đông nghẹt người với xe cộ đó? 

“Cám ơn anh. Không cần đâu anh”.

Không chỉ là đường phố đông nghẹt người mà là hỗn loạn chưa từng thấy! Áng chừng 6 cây số mà phải gần 2 tiếng đồng hồ tôi mới về đến nhà. Dọc đường, tiếng gọi nhau chạy loạn vang vang cả một quảng dài, đúng là "loạn thì lạc!". Trời tối hẳn, những chiếc trực thăng Hoa Kỳ thả "hỏa châu" chiếu sáng liên tục, để từng đoàn trực thăng phụ trách "di tản" thi hành nhiệm vụ. Nhiều phi tuần khu trục phản lực cũng của Hoa Kỳ, gào thét trên không phận thủ đô để sẳn sàng tấn công các đơn vị cộng sản nếu như trực thăng vận tải của họ bị bắn hạ, trong khi đạn phòng không của cộng sản tua tủa vọt lên khoảng không gian bé nhỏ vừa tối lại vừa sáng!

Trong những năm chiến tranh dữ dội, nhất là trong trận chiến "mùa hè đỏ lửa năm 1972", ngày cũng như đêm, người dân Sài Gòn rất quen với tiếng động cơ phản lực chiến đấu, từng đôi từng đoàn, xé không gian lên đường đánh địch bằng hỏa lực mãnh liệt mà nó được các nhà chế tạo Hoa Kỳ nghiên cứu trang bị, và quen đến mức nếu như vắng âm thanh đó thì họ cho là chuyện không bình thường. Bẳng đi một thời gian khá lâu, đêm nay, âm thanh đó trở lại, nhưng là trở lại để đánh dấu một tình huống bi thảm của dân tộc Việt Nam sau hai thập niên chiến đấu vì Dân Chủ Tự Do!

Cơm xong tôi ra xe, nhưng đến 10 giờ đêm mà vẫn chưa ra đến đường Tô Hiến Thành mặc dù chỉ cách nhà tôi hơn 100 thước. Chừng như tất cả mọi người đều đổ xô ra khỏi nhà để tìm đường sống vậy! Tôi xuống xe và chen nhau từng bước giữa khối người là người mới trở vào được trong khu cư xá do các thanh niên trong cư xá canh gác bảo vệ, vì ngay ngoài cổng trước của cư xá đã có vài nhà bị cướp giật rồi. Tôi điện thoại sang Tổng Cục Tiếp Vận:  

“Chào anh Chức, Hoa đây anh. Bây giờ tôi không có cách nào ra ngoài cư xá được vì hỗn loạn đến mức không sao tưởng tượng nỗi. Anh cho phép tôi ở nhà, tất cả điện thoại về nhu cầu Tiếp Vận anh chuyển sang cho tôi và tôi giải quyết ngay. Công việc của Tổng Cục mình bây giờ thu gọn lắm rồi anh. Hàng tiếp liệu cho các đơn vị chỉ gồm nhiên liệu và đạn dược, tôi cho lên xe sẳn sàng tại các kho để cung cấp thật nhanh theo yêu cầu. Anh an tâm”.

“Được rồi. Có gì tôi gọi anh”.

Vài trái đạn đại bác của quân cộng sản đã nổ bên ngoài khuôn viên cư xá nhưng chưa gây thiệt hại quan trọng nào. Phi trường Tân Sơn Nhất chắc là bị pháo kích nhiều, vì tôi nghe tiếng đại bác nổ liên hồi ở hướng đó. Trong cư xá có 1 đại đội Nhẩy Dù từ trên căn cứ Hoàng Hoa Thám (đầu phi trường Tân Sơn Nhất phía Hóc Môn) rút về đây, và cư dân an lòng đôi chút vì có lực lượng phòng thủ.

Gần nửa đêm, Đại Tá Trương Đình Liệu, Chỉ Huy Trưởng Tổng Kho Long Bình, điện thoại tôi:

“Trình anh là tôi đã cho triệt thoái toàn bộ về đây rồi. Chờ lệnh Tổng Cục hoài không thấy, đến khi các đơn vị trong căn cứ Long Bình rút lui, tôi liền cho anh em theo họ”.

“Anh hành động đúng thôi. Chuẩn Tướng Chức nhận chức Tổng Cục Trưởng lúc chiều, ông ấy không ra lệnh thì tôi làm gì được. Về yểm trợ thì tôi lo được, nhưng ra lệnh rút lui thì tôi đâu có thẩm quyền. Anh hiểu tôi rồi hén”.

Khoảng 2 giờ 30 sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, điện thoại (nhà tôi) reo:

“Đại Tá Hoa tôi nghe”.

“Trung Tướng Lộc đây anh. Lúc nảy, Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh có xin tiếp tế xăng và đạn, không biết là họ liên lạc với anh chưa?

“Chuẩn Tướng (Lê Trung Tường) Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn III có gọi tôi, và tôi đã cung cấp rồi, thưa Trung Tướng”.

“Cố gắng nghe anh Hoa”.

“Vâng. Tôi đã trình bày với Trung Tướng chiều qua rồi, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ của tôi cho đến khi nào tôi không thể tiếp tục được nữa, thưa Trung Tướng”.

Khoảng 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thiếu Tá Ông Kim Miêng, chánh văn phòng Tổng Cục Phó, và từ chiều qua là chánh văn phòng Tổng Cục Trưởng, từ văn phòng Tổng Cục Tiếp Vận điện thoại tôi:

“Thưa Đại Tá, Chuẩn Tướng Chức đã lên xe đi rồi”.

“Chuẩn Tướng đi một mình hay đi với ai vậy anh?

“Dạ đi một mình. Chuẩn Tướng đi mà không xách cái cặp theo, và cũng không cho xe hộ tống (xe có còi hụ mà chiều qua ông mang đến) theo nữa”.

“Thôi được. Sáng sáng một chút,  tôi tìm cách  đến Tổng Cục hẳn hay”

Tiếp đó điện thoại lại reo:

“Đại Tá Hoa tôi nghe”.

“Đài đây anh (Đại Tá Nguyễn Hồng Đài). Lúc 10 giờ sáng nay (tức 30/4/1975) "Ông Già" sẽ công bố giải pháp chính trị, anh theo dõi trên đài phát thanh Sài Gòn nghe”.   

“Nhưng mà nội dung giải pháp là gì?

“Trung lập, như tôi nói với anh đó”.

“Vậy là tôi chuẩn bị. Cám ơn anh”.

Đến đây tôi xin mở ngoặc để nói đến 2 điều cho vấn đề được rõ thêm.

Điều thứ nhất. Khoảng năm 1998, tôi có dịp gặp anh Nguyễn Hồng Đài tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Sau khi thăm hỏi nhau, anh xác nhận lời anh đã nói với tôi là đúng như trong quyển Đôi Dòng Ghi Nhớ, nhưng về thời gian thì sai. Anh nói không phải rạng sáng 30 tháng 4 mà là rạng sáng 29 tháng 4, vì tối 29 tháng 4 anh đang trên tàu ra biển. Trí nhớ của tôi vẫn ghi nhận lời anh nói vào rạng sáng 30 tháng 4, vì đây là đêm đầu tiên tôi “bị” ngủ tại nhà sau 3 tuần cắm trại ngủ tại văn phòng tôi (Tổng Cục Tiếp Vận) trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu, và tôi tiếp chuyện điện thoại với anh lúc tôi từ cửa sổ nhà tôi nhìn lên bầu trời với những âm thanh gào thét của những chiếc phản lực cơ Hoa Kỳ bao vùng yểm trợ cho trực thăng đưa người di tản. Vì vậy tôi vẫn viết lại đây theo trí nhớ của tôi.

Và điều thứ hai. Khi tôi nói "tôi chuẩn bị", tức là tôi chuẩn bị rời khỏi Việt Nam ngay sau khi Tổng Thống Minh tuyên bố trung lập. Nghĩa là tôi và gia đình dự trù rời khỏi Việt Nam nhưng không đi trước khi có giải pháp chính trị, mà ra đi trong lúc giao thời dù chỉ trong ngắn ngủi. Chúng tôi dự trù 6 gia đình, trong số này có 2 gia đình thuộc phi hành đoàn C130, dùng chiếc C130 sang Singapore để đi Australia, vì tôi được sự giúp đỡ của người bạn gốc Trung Hoa trong công ty INTRACO tại Singapore, nối liên lạc với cơ quan ngoại giao Australia tại đó và đã được đồng ý. Xin đóng ngoặc.          

Vừa mờ sáng là tôi lên xe. Hướng ngã tư Bảy Hiền -nơi trở thành tiền tuyến- có nhiều tiếng súng trường và tiểu liên, nên không có người đi lại bao nhiêu, và tôi cho xe chạy ngang chợ ông Tạ rồi rẽ sang Võ Tánh nối dài. Quân cộng sản chưa xuống đến ngã tư Bảy Hiền, và tôi an toàn đến Tổng Tham Mưu. Đến, nhưng không được phép vào.

Chuyện như thế này: Trung Tá Tòng, Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Bộ Tổng Tham Mưu đã tháp tùng Đại Tướng Cao Văn Viên đi ngoại quốc từ mấy ngày trước, và Trung Tướng Vĩnh Lộc cử Đại Tá Trần Văn Thăng -sĩ quan An ninh quân đội- giữ chức Chỉ Huy Trưởng Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đang khuyết. Đại Tá Thăng ra lệnh cho toán Quân Cảnh gác cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu, không cho bất cứ ai vào nếu không có thẻ an ninh do Sĩ quan an ninh Tổng Hành Dinh/Tổng Tham Mưu đã cấp. Tôi có thẻ, nhưng không bao giờ mang trên túi áo mà là để trong cặp xách tay, và cái cặp thì tối qua tôi vẫn để trên bàn viết ở văn phòng. Tôi làm như vậy là vì tất cả những quân nhân trách nhiệm ở cổng gác này, không ai là xa lạ với tôi cả. Sĩ quan Quân Cảnh nói:

“Đại Tá thông cảm, vì lệnh của Đại Tá Thăng như vậy nên tôi phải thi hành”.

“Tôi hiểu. Bây giờ Đại Tá Thăng ở đâu vậy anh?

“Dạ Đại Tá Thăng dường như lên văn phòng Trung Tướng rồi Đại Tá”.

“Thôi được. Chốc nữa Đại Tá Thăng về lại văn phòng, anh nói là tôi không có mang theo thẻ an ninh nên không vào được, và tôi sang Biệt Khu Thủ Đô làm việc ở đó. Cám ơn anh nghe”.               

“Đại Tá thông cảm cho tôi nghe Đại Tá”.

“Nếu tôi là anh, tôi cũng vậy thôi mà. Anh đừng bận tâm. Tôi đi đây”.

 

Đạn đại bác của quân cộng sản nổ nhiều ở Tân Sơn Nhất và bắt đầu nổ trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu trong lúc tôi đang nói chuyện với anh sĩ quan Quân Cảnh. Chúng tôi phải nép vào thân cây trước văn phòng Tổng Hành Dinh.

Sang trại Lê văn Duyệt, tôi ngồi tạm trong văn phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, Tham Mưu Trưởng Biệt Khu Thủ Đô. Tôi báo cho Thiếu Tá Ông Kim Miêng bên Tổng Cục Tiếp Vận biết vị trí của tôi và dặn anh chuyển tất cả điện thoại sang tôi nếu có ai gọi.

Trung Tướng Vĩnh Lộc điện thoại cho tôi, ông đồng ý tôi ngồi ở Biệt Khu Thủ Đô điều hành công tác yểm trợ Tiếp Vận. Và ông cho biết là ông phải xuống dinh Độc Lập để dự lễ ra mắt chánh phủ lúc 9 giờ (sáng). Sau đó tôi mới biết là Trung Tướng Vĩnh Lộc cũng bỏ chạy như những vị Tướng đã bỏ chạy, mà chiều hôm qua, khi ông ra lệnh cho tôi ráng lo về Tiếp Vận, ông đã khá nặng lời với các vị ấy. Nhưng nghĩ cho cùng, Trung Tướng Vĩnh Lộc chỉ ngồi ghế Tổng Tham Mưu Trưởng vỏn vẹn có 18 tiếng đồng hồ, và là 18 tiếng đồng hồ cuối cùng của cuộc chiến 20 năm 9 tháng 10 ngày -tôi nghĩ- ông không phải là vị Tổng Tham Mưu Trưởng góp phần trách nhiệm về cái chết tức tưởi của một quân đội hơn 1.000.000 người!   

Tại Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh (có biệt danh là Minh đờn), Tư Lệnh, đã bỏ chạy rồi. Thiếu Tướng Lâm Văn Phát -người đảo chánh Trung Tướng Khánh ngày 19 tháng 2 năm 1965 thất bại- được Tổng Thống Dương Văn Minh cử giữ chức Tư Lệnh Biệt Khu. Chuẩn Tướng Lê Văn Thân, giữ chức Tư Lệnh Phó. Thiếu Tướng Phát từ sáng sớm đã lên trực thăng quan sát tình hình, vừa đáp xuống là ông gọi Tư Lệnh Không Quân cho các phi tuần khu trục liên tục oanh kích quân cộng sản đang quanh quẩn dọc con đường từ phía trên ngã tư Bảy Hiền lên đến Hóc Môn. Vị Tư Lệnh Không Quân lúc bấy giờ là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, vì Trung Tướng Trần Văn Minh (không phải là Trung Tướng Minh đã giữ chức Quyền Tổng Tư Lệnh quân lực sau khi Đại Tướng Nguyễn Khánh lưu vong), Tư Lệnh Không Quân đã cao bay xa chạy rồi. Và Bộ Tư Lệnh Không Quân cùng các phi đoàn còn lại, từ căn cứ Sư Đoàn 5 Không Quân Tân Sơn Nhất và căn cứ Sư Đoàn 3 Không Quân Biên Hòa, rút xuống căn cứ Sư Đoàn 4 Không Quân tại Trà Nóc, cách Cần Thơ khoảng 7 cây số. Tôi nói "các phi đoàn còn lại", là vì đã có nhiều phi công lái hằng trăm phi cơ các loại bay qua căn cứ Utapao của không quân Hoa Kỳ, về phía đông nam thủ đô Bangkok của Vương quốc Thái Lan, di tản.          

Thiếu Tướng Lâm Văn Phát vừa đáp xuống sân Bộ Tư Lệnh, Chuẩn Tướng Lê Văn Thân bảo Đại Tá Ngô Văn Minh ghi lên bản đồ mà ông đang cầm trên tay, vị trí của các đơn vị bạn để ông bay quan sát và hướng dẫn các phi tuần khu trục tấn công các đơn vị địch. Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, chiếc trực thăng trở về nhưng không có Chuẩn Tướng Thân. Tôi hỏi ngay:

“Chuẩn Tướng Thân đâu rồi các bạn?-

“Chuẩn Tướng bảo tôi đáp xuống Cần Giờ, ổng xuống đó rồi bảo tôi về đi”.

“Vậy là Chuẩn Tướng Thân cũng chạy rồi”.

(Sáu tháng sau đó, tôi gặp lại Chuẩn Tướng Thân trong cùng trại tập trung Tam Hiệp, Biên Hòa, trại này người địa phương còn gọi là trại Suối Máu nữa)

Đại Tá Ngô Văn Minh từ trong Trung Tâm Hành Quân gọi tôi:

“Anh Hoa, anh nói chuyện với Lê Minh Đảo không? Hắn đang ở đầu máy bên kia nè”.

Đó là Thiếu Tướng (mới thăng cấp chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao) Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đã quần thảo với 2 sư đoàn quân cộng sản ở Xuân Lộc và gây cho chúng tổn thất rất nặng. Vì áp lực của chúng quá mạnh, nên Quân Đoàn III cho lệnh lui về căn cứ Long Bình.

“Chào anh Đảo, Hoa đây.  Anh đang ở đâu vậy?

“Tôi ở chỗ "nhà máy xi măng Hà Tiên" và đang tìm xuồng qua sông. Tụi cộng sản nó đuổi theo sau lưng tôi nè. Hết rồi anh ơi!     

“Dù gì thì anh đã đánh nhau với tụi nó một trận ngon lành, anh oai hơn nhiều vị Tư Lệnh khác mà”.

“Sao anh ở chỗ anh Minh?

“(Tôi mượn câu của anh để trả lời anh) "Hết rồi anh ơi"! Vì chỉ còn yểm trợ cho Biệt Khu thôi, và giờ này thì còn đơn vị nào nữa đâu. Thôi, chúc anh may mắn nghe, và mong rằng chúng mình vẫn còn gặp lại nhau là mừng rồi”.

Sau đó -tức sau giờ Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố buông súng và bàn giao-  Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dùng giấy tờ giả xuống Rạch Giá để hy vọng vượt thoát ra Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, nhưng anh đã không thực hiện được và trở về nhà trong cùng cư xá với tôi. Sau này, có những năm chúng tôi ở tù chung trong một trại nhưng khác buồng giam.

Lúc 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4 năm 1975, từ máy thu thanh trong phòng Đại Tá Ngô Văn Minh, có âm thanh "... ông nói đi...., nhanh lên,.... chờ gì nữa,....". Một giọng nói gần như quát: "Ông tuyên bố nhanh lên..." Và đại ý lời của Tổng Thống Dương Văn Minh như là một mệnh lệnh đối với quân đội ".... các đơn vị không được nổ súng, ở yên tại chỗ và bàn giao cho lực lượng giải phóng...". Đối với phía cộng sản, ông yêu cầu đừng nổ súng và ông hứa sẽ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự. 

Tôi xem đây là giây thứ 3.600, giây cuối cùng của giờ thứ 25, giờ cuối cùng của ngày thứ 7.583, và là ngày cuối cùng của một giai đoạn chiến đấu bảo vệ tự do dân chủ! 

Thế  là  hết !!!


Tôi lặng lẽ rời nơi đây, theo đường Lê Văn Duyệt, rẽ sang đường Trần Quốc Toản, ép bên phải để ghé vào Cục Mãi Dịch, chào các cộng sự viên cũ của tôi. Trung Tá Nguyễn Văn Thình, Cục Phó, hỏi tôi cách bàn giao ra sao? Tôi bảo:

“Không bàn giao gì cả, các bạn nào muốn lấy gì thì lấy rồi thản nhiên ra về, ai muốn vào đây làm gì mặc họ”. 

Dọc đường về nhà, những nơi mà  tôi vừa đi qua, có  biết bao bộ đồ trận -những bộ quân phục từng là biểu tượng quân phong quân kỷ của quân nhân- những mũ những giày, vất vưỡng ngỗn ngang trên đường phố. Trong dòng người ngược xuôi vội vã, có rất nhiều người quần đùi áo lót mà tôi tin đó là những đồng đội của tôi tạm thời lẩn tránh bọn cộng sản. (Hình ảnh này là một phần trong bản nhạc ''Như Lá Chết Cành Khô'' do cựu Đại Tá Phan Văn Minh -đã một thời là Đổng Lý Văn Phòng của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ- sáng tác trong thời gian bị giam ở trại tập trung Hà Tây, tỉnh Hà Sơn Bình).

Quân cộng sản chưa thật sự có mặt trong thành phố, nhưng những tốp thanh niên nam nữ đeo băng tay đỏ với súng M16 trên tay và ngồi xe jeep chạy đó đây trong trên đường phố Sài Gòn. Đó là những bọn mà chúng tôi gọi là "cộng sản 30 tháng 4". Dù trong một tầm nhìn hạn hẹp đó, tưởng cũng đủ nói lên một cảnh tượng trong biết bao cảnh tượng đau thương ngập tràn trái tim Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vì chưa tròn trách nhiệm với dân với nước!

Chốc chốc tôi sờ vào chai độc dược trong túi, dự định của tôi khi xin Y sĩ Chuẩn Tướng Phạm Hà Thanh là tôi sẽ sử dụng nếu như tôi bị cộng sản bắt hoặc chưa bắt nhưng chúng sỉ nhục tôi. Nhưng, chiều hôm ấy, tôi đã ném nó vào thùng rác và với khẩu súng lục 9 ly (do ông Johnson, trưởng toán tình báo vùng đồng bằng Cửu Long tặng tôi tại Cần Thơ năm 1968) vào cái giếng ngay sau nhà cô tôi ở đường Thành Thái, sau khi vợ tôi ngồi dưới chân tôi vừa khóc vừa nói như van lơn:

"Anh ơi, trong mọi trường hợp, anh đừng bỏ em và các con nghe anh!".

Tôi tin  là vợ tôi không biết gì về chai độc dược trong túi tôi, nhưng có lẽ do cảm tính đặc biệt của người vợ thấu hiểu tính chồng trong hoàn cảnh nghiệt ngã mà nói với chồng bằng cả tâm hồn người vợ người mẹ!

Hơn một tiếng đồng hồ sau lời tuyên bố đầu hàng (không nổ súng có nghĩa là đầu hàng rồi!) của Tổng Thống Dương Văn Minh, đơn vị Thiết Giáp đầu tiên của cộng sản mới vào dinh Độc Lập. Và từ giờ đó, Việt Nam Cộng Hòa chúng ta bị nhà cầm quyền nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cai trị!

Trong lúc trên dưới 200.000 quân của Quân Đoàn IV, chưa một trận đánh quan trọng nào, cũng chưa một vị Tư Lệnh nào bỏ chạy, đã phải buông súng đầu hàng theo lệnh của Tổng Thống Dương văn Minh!

Trước đó, khi cuộc chiến chưa ngừng tiếng súng, có những vị Tướng đầy quyền lực, đã thật sự bỏ chạy ra nước ngoài. Và giờ đây, cuộc chiến thật sự đã tàn, và tàn trong ý nghĩa thua trận, bại trận, hay đầu hàng, hiểu thế nào cũng thế thôi. Nhưng trong cảnh bại trận này, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, xuất hiện Những Vị Tướng Thật Sự Là Những Anh Hùng không kém những vị Anh Hùng trong lịch sử đã tuẫn tiết khi thành thất thủ. Đó là hành động tự sát ngay nơi nhiệm sở chớ không chấp nhận đầu hàng, của:

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV. (Cần Thơ)


Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV. Chuẩn Tướng Hưng đã được vinh danh "Anh Hùng An Lộc" trong mùa hè đỏ lửa 1972 ở chiến trường An Lộc, tỉnh Bình Long. (Cần Thơ)


Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh. (Mỹ Tho)


Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh (Lai Khê, Bình Dương).


Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, tự tử tại nhà vì tên tuổi Quân Đoàn II đã bị chôn theo những nấm mồ vô danh trên đường liên tỉnh số 7 từ giữa tháng 3 năm 1975 rồi.


Ngoài ra, còn biết bao Quân Nhân thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, Binh Sở, Cảnh Sát, Viên Chức Hành Chánh các ngành, đã tuẫn tiết! Đó là "Những Anh Hùng Vô Danh" rất đáng cho chúng ta trân trọng.

Vào những ngày 30 tháng 4, tôi nghĩ, chúng ta nên dành vài chục giây đồng hồ, đứng hay ngồi ở đâu đó cũng được, cúi đầu, im lặng, để tưởng nhớ những vị Anh Hùng của chúng ta, những người đã cùng chúng ta cầm súng chống quân cộng sản xâm lược, nhưng vào giờ phút kết thúc bi thảm cuộc chiến đấu của chúng ta, thì những vị đó đã can đảm thực hiện tròn vẹn lời thề trước bàn thờ Tổ Quốc trong ngày tốt nghiệp trường võ bị: "... Quyết hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ Quốc Dân Tộc ..."

Và theo tôi, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh, là người rất xứng đáng được vinh danh "Anh Hùng Xuân Lộc" trong trận đánh sau cùng. Thiếu Tướng Đảo, dù bản doanh kế cận thủ đô Sài Gòn nhưng không bỏ chạy, mà trái lại, ông là vị Tư Lệnh duy nhất trong 3 Quân Đoàn, đã chống trả mãnh liệt và gây tổn thất nặng nề cho 2 Sư Đoàn quân cộng sản tấn công Xuân Lộc (thuộc tỉnh Long Khánh). Và Sư Đoàn 18 Bộ Binh chỉ rút lui khi có lệnh của Quân Đoàn III.  

Một giai đoạn lịch sử do Tổng Thống Dương Văn Minh -vị Tổng Thống có nhiệm kỳ chỉ hơn 40 tiếng đồng hồ- vừa sang trang!

Dân Tộc Việt Nam, từ nay dưới sự thống trị của cộng sản độc tài nghiệt ngã!   



Quê hương Việt Nam chúng ta,

dân tộc Việt Nam chúng ta,

sao mà bi thảm đến như vậy! 

sao mà bất hạnh đến như vậy!

 

Saturday, July 16, 2011

TRUNG TƯỚNG ĐẶNG VĂN QUANG


Đời bi kịch của một vị tướng      
Tác Giả: Bùi Văn Phú Gửi cho BBC từ California   

Trung tướng Đặng Văn Quang, nguyên cố vấn quân sự và an ninh quốc gia của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời tại Hoa Kỳ
 khép lại cuộc đời một vị tướng miền Nam phản ánh của bi kịch chính trường Sài Gòn và quan hệ giữa Hoa Kỳ với Việt Nam Cộng hòa
Ông Đặng Văn Quang được phong Trung tướng của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa năm 1965
Ông rời Việt Nam trong những ngày cuối tháng 4-1975, đến trại tị nạn ở bang Arkansas. Sau đó tướng Quang vội vã rời đây vì e ngại nỗi uất hận của đồng hương bột phát sẽ không an toàn cho bản thân ông, vì có một số lời đồn đại không tốt từ thời chiến.
Ông sang Canada thăm con và khi trở lại Hoa Kỳ thì chính phủ Mỹ không cho nhập cảnh mà không nêu lý do. Canada cũng không muốn sự có mặt của tướng Quang trên đất nước họ vì những cáo buộc liên hệ đến ông và muốn trả ông về Việt Nam.
Sự việc đã làm xôn xao dư luận người Việt hải ngoại trong thời gian đầu định cư ở nước ngoài.
Ra đi vất vả
Theo cựu trưởng phân tích gia của CIA Frank Snepp viết trong tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977, ngày 29-4 tướng Quang đến trước Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong lúc đông người đang chen lấn mong được di tản.
Từ trong sân toà đại sứ, giám đốc CIA tại Việt Nam Tom Polgar nhận ra tiếng tướng Quang gọi và ra lệnh cho lính thủy quân lục chiến mở cổng cho vào. Vào bên trong, tướng Quang tiếp tục tìm cách cầu cứu vì đã bỏ lại người con và cháu bên ngoài.
Theo Snepp, lúc này tướng Quang chẳng còn là người quan trọng đối với Hoa Kỳ vì ông đã “phản bội người Mỹ” khi không báo cho CIA biết về kế hoạch bỏ cao nguyên của Tổng thống Thiệu. Chiều hôm đó tướng Quang được di tản ra khỏi Việt Nam bằng trực thăng.
Trong Decent Interval còn ghi chi tiết là trước đó vài hôm tướng Nguyễn Cao Kỳ đã muốn bắt giam tướng Quang khi các tướng có mặt tại Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông đã lẩn thoát được.
Những bất đồng giữa tướng Kỳ và Tổng thống Thiệu trong thời gian nắm quyền lãnh đạo miền Nam, trong khi tướng Quang lại được ông Thiệu tín cẩn, đã gây nhiều hiềm khích giữa tướng Kỳ và tướng Quang với nhiều đồn đoán. Có dư luận cho rằng do phe tướng Kỳ đưa ra, về tham nhũng, buôn bán bạch phiến dính tới tướng Quang mà người dân miền Nam có một thời gian được nghe biết.
 
Hai tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Johnson tại Honolulu năm 1968 trong thời kỳ rất khó khăn của VNCH

Tuy nhiên những ghi nhận trong các tác phẩm Decent Interval xuất bản năm 1977 và CIA and the Generals của Thomas L. Ahern, Jr. xuất bản năm 2009 đưa ra những tài liệu được giải mật cho thấy tướng Quang không liên hệ đến các cáo buộc buôn bạch phiến.
Vì tướng Quang được ông Thiệu tin cẩn và ông còn là người liên lạc giữa Dinh Độc lập với CIA nên cơ quan tình báo Mỹ đã có những điều tra riêng về nhân cách và biết rõ ông không liên quan đến bạch phiến như những tin đồn hay thông tin được nhà báo Mỹ Alfred W. McCoy viết trong tác phẩm The Politics of Heroin in Southeast Asia xuất bản vào đầu thập niên 1970.
Nhiều thông tin trong sách này đã được các nhóm chống đối chính quyền của ông Thiệu, điển hình như phong trào chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, dịch và phát tán tại Việt Nam trong những năm sau khi Hiệp định Paris được kí kết vào tháng 1-1973.
Tổng thống Thiệu lúc đó cho rằng các phong trào chống chính phủ của các tôn giáo Phật giáo, Công giáo là có người Mỹ đứng sau giật dây.
Theo Frank Snepp, tướng Quang là người giao tiếp giữa Dinh Độc lập và Đại sứ quán Mỹ. Ông đã có rất nhiều cuộc gặp với giám đốc cũng như nhân viên cao cấp của CIA ở Sài Gòn để trao đổi tin tức, phân tích tình hình chính trị, quân sự và chính sách của lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà với người Mỹ. Snepp nhận xét tướng Quang có nếp sống với chuẩn mực đạo đức cao, sòng phẳng về tiền bạc.
Vì thế câu chuyện tướng Đặng Văn Quang sau khi rời Việt Nam không được chính phủ Mỹ cho định cư, còn Canada đòi trục xuất đã làm xôn xao dư luận một thời.
Sống tạm dung ở Canada tướng Quang đã làm đủ mọi việc để kiếm sống.
Phục hồi danh tiếng
Năm 1988, một sĩ quan Lực lượng Đặc biệt của Mỹ, cựu Trung tá Dan Marvin từng phục vụ tại Quân đoàn IV khi tướng Quang là tư lệnh, biết được việc chính phủ Hoa Kỳ không cho phép ông vào Mỹ nên đã vận động để trả lại sự thực và đòi công đạo cho một vị tướng Việt Nam Cộng hoà bị quá nhiều tai tiếng.
Marvin coi tướng Quang là người đã cứu mạng ông trong một tranh chấp lúc chiến tranh khi ông làm cố vấn tại làng Hoà hảo An Phú trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sự kiện này được Dan Marvin ghi trong tác phẩm Expandable Elite xuất bản năm 2003.
Tác giả đưa ra giả thuyết chính phủ Mỹ không cho tướng Quang nhập cư vì ông đã không tán đồng kế hoạch của Hoa Kỳ nhằm ám sát Thái tử Norodom Sihanouk của Cam Bốt vào năm 1966.
Dan Marvin đã kiến nghị đến các dân cử, ban ngành liên hệ và cả với Tổng thống George H.W. Bush (Cha). Cựu giám đốc CIA tại Sài Gòn Tom Polgar, người đã có rất nhiều dịp gặp gỡ, tham khảo với tướng Quang khi còn làm việc trong một bản tường trình ủng hộ cho ông được vào Hoa Kỳ.
 
Tướng Đặng Văn Quang có cuộc sống khá vất vả kể cả sau khi được định cư tại Hoa Kỳ
Ông Marvin đưa ra nhận xét là tướng Quang và gia đình lúc ở Việt Nam đã không có một cuộc sống giầu sang, phú quý và những cáo buộc liên quan đến chuyện ông buôn bán bạch phiến là không có cơ sở vì theo những điều tra riêng của CIA thời đó, trước khi tổ chức này tin và liên lạc với ông, tướng Quang không có dính líu gì đến bạch phiến.Sau đó chính quyền Canada hủy bỏ những cáo buộc liên quan đến tướng Quang và chính phủ Mỹ đồng ý cho ông định cư.
Đến Mỹ vào tháng 9-1989, hai ông bà có lúc sống ở Atlanta, khi ở nam California. Ông tiếp tục làm những việc lao động và vợ là bà Đỗ Thị Năm cũng làm bánh bán để kiếm sống.
Sau này vì tuổi già sức yếu, hai ông bà được sự giúp đỡ của cựu Thiếu tá Trần Văn Ngà, nguyên Trưởng ban Thông tin Báo chí Quân đoàn IV, đưa về sống trong một chung cư dành cho người già ở Sacramento, thủ phủ của bang California.
Mùa hè năm ngoái tôi có dịp đến thăm tướng Quang nhân cùng đi với đoàn quay phim của Hội Bảo tồn Lịch sử và Văn hoá Người Mỹ Gốc Việt (VAHF) đang thực hiện phỏng vấn 500 người để lưu lại trong thư viện Đại học Texas ở Austin. Tướng Quang đã yếu và trí nhớ kém nhiều vì tuổi già.
Hỏi ông về những biến cố trong đời có điều ông nhớ, có điều không. Tôi có hỏi ông trong đời ông mang ơn ai nhất, tướng Quang nói đó là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Đối với những người đã gây phiền lụy, tướng Quang nói ông tha thứ hết.
Cựu Trung tướng Đặng Văn Quang sinh ngày 21-6-1929 tại Sóc Trăng.
Ông là một vị tướng trẻ nhất của quân đội Việt Nam Cộng hoà, từng giữ chức tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh, tư lệnh Quân đoàn IV Vùng IV Chiến thuật. Chức vụ sau cùng của ông là phụ tá đặc biệt về quân sự và an ninh quốc gia cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ông qua đời hôm 15-7 tại Sacramento, California, hưởng thọ 82 tuổi, để lại vợ, 7 người con và 9 cháu nội ngoại.
Tang lễ cựu Bấm Trung tướng Đặng Văn Quang đã được cử hành theo nghi thức công giáo tại nhà thờ Các Thánh Tử đạo Việt Nam ở Sacramento, California vào chiều ngày 20-7-2011 và nghi thức hoả táng diễn ra vào trưa ngày hôm sau.
Tác giả Bùi Văn Phú hiện dạy đại học cộng đồng và sống tại vùng Vịnh San Francisco.


TRUNG TƯỚNG ĐẶNG VĂN QUANG 
Những ai từng phục vụ trong các đơn vị thuộc Vùng 4 Chiến Thuật thời gian 1964 – 65 – 66… có thể công nhận rằng, Trung Tướng Đặng Văn Quang giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 & Vùng 4 Chiến Thuật kiêm Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây rất “mát tay”, là thời điểm kiêu hùng nhất của quân dân miền Tây, chiến thắng nối tiếp chiến thắng, an ninh lãnh thổ được vững chắc nhất. Với 3 sư đoàn bộ binh tinh nhuệ cùng các đơn vị Biệt Động Quân biệt lập, các trại Lực Lượng Đặc Biệt biên phòng ở dọc theo biên giới từ Hà Tiên qua Châu Đốc, Kiến Phong và Kiến Tường, trên 200 cây số làm rào cản sự xâm nhập vũ khí, tiếp liệu và bộ đội chính quy CSBV xâm nhập qua từ bên xứ Chùa Tháp – Kampuchia. Cũng thời Trung Tướng Đặng Văn Quang, 3 sư đoàn cơ hữu của QĐ4 : Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh – bộ binh là hoàng hậu của chiến trường như một vị tướng của quân đội Pháp đã nói. Các đơn vị này đều tạo nhiều chiến thắng vẻ vang liên tục, đặt tên riêng các cuộc hành quân cấp sư đoàn. Khu Chiên Tiền Giang với SĐ7BB, tên cuộc hành quân là Tiền Giang (Tiền Giang 1,2,3…). Khu 41 Chiến Thuật với tên cuộc hành quân của SĐ9BB là Cửu Long và SĐ21BB – Khu 42 Chiến Thuật với tên gọi là Dân Chí. Riêng Sư Đoàn 21 Bộ Binh, từ lúc Đại Tá Đặng Văn Quang về làm Tư Lệnh, ông đã đặt tên Dân Chí cho các cuộc hành quân sư đoàn. Các cuộc hành quân nhỏ cấp Tiểu khu và Trung đoàn cơ hữu của Khu 42 Chiến Thuật cũng dùng tên Dân Chí và kèm theo TK là cấp tiểu khu và TRĐ ở cấp trung đoàn…Vì vậy, khi Tướng Quang về Cần Thơ, ông đã ra lệnh 3 SĐ thuộc quyền cũng đều có tên như nêu trên. Thời điểm này, Ban Thông Tin Báo Chi của chúng tôi được cưng chìu nhất và đích thân Trung Tướng Quang cho thêm nhiều phương tiện, thiết lập được 1 nhà in để in bán nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây mà tôi là Tổng Thư Ký Tòa Soạn. Ban Thông Tin Báo Chí được tăng cường thêm nhiều người có khả năng như nhà văn Nguyên Vũ – Vũ Ngự Chiêu, nhà thơ Tô Thùy Yên – Đinh Thành Tiên, giáo sư triết: Lê Văn Tấn – Nguyễn Văn Oánh (họ và chữ lót có thể sai), giáo sư Pháp văn Phan Thông Hảo, kỷ sư Canh nông Nguyễn văn Hoàng, luật sư Võ Tứ Cầu, Mai Hòa – một phóng viên chiến trường nổi tiếng, cơ hữu của Ban TTBC/QĐ4…có sĩ quan vừa ra trường được xin hoặc thuyển chuyển về đây. Ban Thông Tin Báo Chí lúc này lên cao điểm và mở rộng về thông tin, viết phóng sự chiến trường cung cấp cho phát thanh và cả báo chi trung ương. Nhà in riêng của QĐ4 (in truyèn đơn, báo bán nguyệt san Chiến Sĩ Miền Tây, in 2 tập sách cái nhìn mới mẻ về xây dựng nông thôn, chính Trung Tướng Quang gọi anh Tấn và anh Oánh lên văn phòng, ông chỉ thị 2 anh viết về đề tài này do sự chỉ đạo của ông Tướng và đích thân ông sửa chửa, hiệu đính hoàn chỉnh mới xuất bản). Ngoài ra chúng tôi có chương trình phát thanh trên hệ thống Đài Phát Thanh Ba Xuyên gọi là Tiếng Nói Vùng 4 Chiến Thuật (Đài PT Ba Xuyên ở trên đường từ Thị xã Khánh Hưng – Sóc Trăng đi Bãi Xào – quận lỵ Châu Thành hay Mỹ Xuyên, nơi bán đuông chà là sống và món nhậu tại chỗ, nhiều nhất ở miền Tây). Tóm lại, thời Trung Tướng Đặng Văn Quang “trị vì’ miền Tây là thời cực thịnh của Ban Thông Tin Báo Chí do tôi làm Trưởng Ban, bên cạnh có 1 Thiếu Tá và 2 Đại Úy Mỹ làm cố vấn cùng với nhân viên 8 người, quân số ngang bằng với Ban TTBC của QĐ4. Chúng tôi làm việc rất dễ dàng, khi nghe có tin chiến thắng hay những cuộc hành quân lớn cấp sư đoàn với tên Tiền Giang, Cửu Long, Dân Chí chúng tôi biết thuộc khu chiến thuật nào, xin trực thăng đưa ký giả VN hoặc ngoại quốc đang ở Sài Gòn đến ngay mặt trận. Nếu phía VN chưa có phương tiện thì cố vấn Mỹ xin cho chúng tôi ngay. Thí dụ cuộc hành quân Tiền Giang, chiến thắng vẻ vang, ông Tướng Vùng ra lệnh Ban Thông Tin Báo Chí mời ký giả từ Sài Gòn xuống quay phim, chụp hình, thực hiện phóng sự. Chúng tôi liên lạc với SĐ7 đưa xe về Sài Gòn đón ký giả xuống Mỹ Tho và đến BTL/SĐ7 ở Mỹ Tho để có thể giúp phương tiện trực thăng đưa đến chiến địa. Khi Sư Đoàn 21 BB có cuộc hành quân Dân Chí ở rừng U Minh – Cà Mau và chiến thắng lớn, muốn mời ký giả xuống thì chúng tôi phải vận động, xin cấp 1 hay 2 chiếc trực thăng từ Sài Gòn (sau này, thường thông qua Khối Thông Tin Giao Tế Dân Sự của Tổng Cục Chính Trị mời giúp và xin phương tiện với Tổng Cục Tiếp Vận). Nếu tôi nhớ không lầm, tên các cuộc hành quân của các Sư đoàn không thay đổi khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh về thay thế Trung Tướng Đặng Văn Quang. Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng về thay thế Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh sau vụ Tết Mậu Thân 68, Trung Tướng Thắng có thay tên các cuộc hành quân, tên một vị tướng anh hùng đã chống quân ngoại xâm Pháp tại chiến trường miền Tây: Trương Công Định… Năm 1966, Trung Tướng Đặng Văn Quang được Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ “mời” về giữ chức vụ nghe thì lớn lắm, Tổng Ủy Viên Kế Hoạch trong Nội Các Chiến Tranh. Đây là chức vụ “ngồi chơi xơi nước”, Trung Tướng Quang là một vị tướng trẻ (35-36 tuổi đã đeo 3 sao) và đã hoàn thành chức trách tuyệt vời ở miền Tây tạo nhiều chiến thắng vẻ vang và được lòng dân chúng, nhất là lực lượng giáo phái Phật Giáo Hòa Hào tin tưởng và kính trọng. Có thế nói Tướng Quang là Tướng Vùng Chiến Thuật có nhiều uy tín nhất lúc bấy giờ. Ông lại có công rất lớn trong việc vận động đặt nền móng thành lập Viện Đại Học Cần Thơ, chính Trung Tướng Quang là vị tướng Vùng đã xây dựng một nghĩa trang Quân Đội rộng lớn khang trang tại Cần Thơ chỉ thua tầm vóc Nghĩa Trang Quân Đội (Biên Hòa). Trung Tướng Đặng Văn Quang đã hổ trợ hết mình nhà văn nhà báo An Khê Nguyễn Bính Thinh xuất bản tờ nhựt báo Miền Tây, tòa soạn đặt gần bến Ninh Kiều mà tôi là “con thoi” ( lo giúp đở tờ báo) giữa Trung Tướng Đặng Văn Quang và nhà văn An Khê (sau này thời Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh tờ báo sống ngoắc ngoải, đến Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng về thì nhựt báo Miền Tây “tắt thở”). Tờ nhựt báo Miền Tây là tờ báo đầu tiên trong lịch sự báo chí VN xuất bản tại miền Tây. Hiện nay, Ban biên tập của nhựt báo Miền Tây do nhà văn An Khê làm chủ nhiệm (cựu Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng bị thương nặng thành phế binh và anh An Khê đã chết ở Pháp chừng hơn 10 năm) có một người hiện đang hoạt động báo chí, văn học tại thung lũng hoa vàng San Jose: nhà báo nhà văn Nguyễn Thiếu Nhẫn tức Lão Móc có thể biết sự kiện lịch sử này.Chính xác hơn, Vùng 4 Chiến Thuật kiêu hùng nhất là thời điểm 64 – 65 – 66 hơn hẳn các ông Tướng từng chỉ huy ở vùng này trước đó (và có thể nói sau này, cho đến ngày 30.4.75).   Trung Tướng Đặng Văn Quang là tướng lãnh gần gũi nhất với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (cùng Khóa 1 Đập Đá ở Huế tức là Khóa Quốc Trưởng Bảo Đại, tiền thân của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam – Đà Lạt) và là cấp chỉ huy đại đơn vị tài giỏi được Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tin cậy và đề bạt thay thế ông ở đồng bằng sông Cửu Long. Ông là người thân cận với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong những chức vụ cao cấp nhất như Phụ Tá (Cố Vấn) Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu về Quân Sự, An Ninh & Tình Báo Quốc Gia, Tổng Thơ Ký Hội Đồng An Ninh Quốc Gia… cho đến ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền lại Phó Tổng Thống Trần Văn Hương… Trung Tướng Đặng Văn Quang đeo 3 sao từ năm 1965 và cho đến 30.4.75, 10 năm dài. Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây, tại sao Trung Tướng Đặng Văn Quang, người hùng của miền Tây bị Tướng Kỳ “chơi” bằng nhiều cách phao tin ông Tướng vốn sinh đẻ tại Phú Lâm Châu Đốc, sống và lớn lên ở Sóc Trăng (cùng quê vớí Trung Tướng Dương Văn Đức) là kỳ thị Nam Bắc và “xào nấu”, thổi phồng lên là tướng lãnh tham nhũng gộc. Tình báo CSBV muốn Tướng Quang phải thân bại danh liệt, mất uy tín của cấp chỉ huy tài giỏi; nên chúng phao tin xấu như buôn bán bạch phiến, thuốc tây lậu, tiền gời ngân hàng Thụy Sĩ nhiều triệu dollars…cho ông Tướng Quang nhằm trả thù, cách điều quân tài tình của ông, đánh tan tành các đơn vị chính quy của CSBV xâm nhập bằng đường biển và đường biên giới Kampuchia. Tướng Quang là cánh tay đắc lực của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sau này. Kế đên, ông Tướng cùng với giới trí thức, dân miền Tây, Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo xin thiết lập Viện Đại Học Cần Thơ. Không biết vì lý do gì, thời uy quyền Tướng Kỳ nắm hết trong tay (Nội Các Chiến Tranh) cương quyết không đồng ý. Tướng Quang theo phe miền Tây xin cho bằng được thành lập Viện Đại Học Cần Thơ nên làm phật ý Tướng Kỳ. Khi Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu lập liên danh ra ứng cử Tổng Thống năm 1967, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng có liên danh tranh cử. Cả 2 ông Tướng cùng ra tranh cử 2 liên danh khác nhau, chia phiếu quân nhân, có thể cả 2 liên danh đều thất cử và liên danh dân sự như liên danh Trương Đình Dzu (luật sư, thiên tả) hay liên danh dân sự nào khác sẽ đắc cử. Vì vậy Hội Đồng Tướng Lãnh mới có cuộc họp quyết định sáp nhập 2 liên danh của Trung Tướng Thiệu và Thiếu Tướng Kỳ làm một. Tôi nghe kể lại buổi họp đó rất gây cấn, các ông Tướng vốn xuất thân từ khóa 1 Nam Định (cùng khóa với Tướng Kỳ) đều nhiệt liệt ủng hộ Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Đối nghịch lại, Trung Tướng Đặng Văn Quang hết lòng ủng hộ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và nhiều tướng lãnh khác gốc miền Trung, miền Nam cũng ủng hộ, nên có thể là cái lý do Tướng Kỳ “ghét” Tướng Quang thậm tệ nên chuyện phao tin, thêu dệt Tướng Quang tham nhũng gộc được phe Tướng Kỳ khuấy động dữ dội thời điểm đó. Chuyện này còn kéo dài đến trại tập trung người tỵ nạn CS ở Texas năm 1975, cũng có người muốn hành hung, nói ông Tướng Quang “đầu nậu’ tham nhũng nên mất nước… Ngoài ra, còn một yếu tố quan trọng khác, thời Trung Tướng Đặng Văn Quang làm Tư Lệnh V4CT, cố vấn Mỹ đề nghị đưa vài đơn vị lớn của Mỹ về V4CT kể cả Đại Tướng Mỹ Westmoreland cũng có ý kiến đó nữa. Trung Tướng Đặng Văn Quang viện nhiều lý do là QLVNCH được sự tích cực ủng hộ của dân chúng và các đơn vị giáo phái tân tuyển có tinh thần chiến đấu tuyệt vời; các đơn vị chủ lực và địa phương của các tiểu khu đủ sức ngăn chặn sự xâm nhập của bộ đội CSBV và luôn chiến thắng nên không cần có các đơn vị lớn của Hoa Kỳ và xin Hoa Kỳ tăng cường giúp các Vùng Chiến Thuật khác. Nghĩa là Tướng Quang mạnh dạn từ chối Hoa Kỳ đổ quân xuống miền Tây. Có một lần Tướng Quang tâm sự với chúng tôi cùng ngồi trên trực thăng chỉ huy C & C, nếu quân Mỹ ồ ạt đổ vào miền Tây thi chúng ta mất phần nào chánh nghĩa chống quân CSBV mà chúng ta dư sức, ăn thua đủ với quân chánh quy CSBV. Một vụ khác CIA, cố vấn Mỹ muốn Tướng Quang phải triệt hạ Đại Úy LLĐB Dan Marvin cùng với 5 nhân viên Mỹ khác luôn cả trại biệt kích hoặc bắt Đại Úy Dan Marvin giải giao về Sài Gòn. Lý do, Đại Uý Dan Marvin không thi hành lịnh ám sát Quốc Trưởng Sihanouk ở Kampuchia (nhằm bịt miệng vụ tai tiếng này). Điều cần lưu ý toán LLĐB này đang làm cố vấn cho Trại Biệt Kích biên phòng Dân Nam thuộc quận An Phú – Châu Đốc rất được sự mến mộ của dân chúng địa phương và Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo. Trại Biệt Kích biên phòng Dân Nam do các cựu chiến sĩ Hòa Hảo dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Lê Văn Phồi (Trung Tá Phồi đang định cư ở Hoa Kỳ) điều hành chỉ huy. Nếu sử dụng đơn vị chính quy QLVNCH tiêu diệt trại này thì sẽ có hàng trăm chiến sĩ chống cộng nhiệt thành cũng bị chết lây. Vì vậy, Tướng Quang cũng chống và ông tự giải quyết tốt đẹp nên cũng không được lòng Hoa Kỳ, không ngoan ngoản làm theo bất cứ cái gì cố vấn Hoa Kỳ muốn. Thời gian sau khi Tướng Quang về Trung ương thì Mỹ đã đưa cả Sư Đoàn 9 BB đặt bản doanh tại căn cứ Đồng Tâm – Mỹ Tho, đơn vị này cũng chẳng tạo được thành tích chiến thắng vẻ vang nào như QLVNCH. Vì vậy, có thể vài phóng viên của Hoa Kỳ mượn cớ bên phía VNCH, CSBV tung tin Tướng Quang tham nhũng số 1 của chế độ và các cơ quan truyền thông bị nhiễm nộc độc của Tướng Kỳ lại phóng đại lần nữa nên giới truyền thông Mỹ lại nêu đích danh Tướng Quang tham nhũng gộc…nên có nhiều người Việt tỵ nạn CS tin mới làm phiền ông Tướng đáng thương.   Chuyện tình báo CSBV phao tin Tướng Quang buôn bán bạch phiến và thuốc Tây lậu khi ông làm Tư Lệnh V4CT (và sau này khi Tướng Quang làm Phụ Tá Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu). Chuyện 1 ông Tướng ở miền Tây mà buôn bán ma tuý và thuốc Tây lậu thì quả thật là chuyện của cõi trên mà cũng có người tin cho tới ngày nay mới là lạ. Hiện nay, ông và bà Tướng cùng đang nằm trong Nursing Home ở Sacramento do 2 vợ chồng đệ tử, làm dưới quyền ông năm xưa ở QĐ4 hết lòng chăm sóc, thăm viếng vì tất cả 7 đứa con của ông bà Tướng Quang đều ở xa như Pháp, Úc, Canada và 2 người ở Maryland và Indiana. Cuộc sống của 2 ông bà hiện nay chỉ tính bằng tháng thôi vì lớn tuổi vào hàng 8, ông bị bệnh Alzheimer, bà bị bệnh tim và tiểu đường… Xin mời các chiến hữu và độc giả tìm đọc bài báo viết về cuộc đời của Tướng Quang với những thử thách bi thảm từ Sài Gòn đến Sacramento, với cái tít: The Trial of General Dang – From Saigon to Sacramento, a South Vietnamese General’s Journey Proves Old Soldiers Don’t Fade Away, They Stick Together của nhà báo R.V. Scheide(email: rvscheide@newsrewiew.com) đăng trên tờ tuần báo Sacramento News & Review (SN & R), phát hành tại Sacramento và có ấn bản ở nhiều thành phố khác ở miền Bắc Cali. Bài báo có kèm theo nhiều tấm hình hồi còn oai quyền của Trung Tướng Quang mà cựu Trung Tá LLĐB Dan Marvin có được và ông đã viết thành sách với tựa đề “Expendable Elite – One Soldier’s Journey Into Covert Warfare” xuất bản năm 2003 nói về cuộc đời của ông Dan, 1 sĩ quan LLĐB Mỹ tham chiến tại VN và có lòng câu chuyện Tướng Quang cứu mạng tác giả. Bài báo này có trong số Volume 20, Issue 27 ngày thứ năm 4.12.08. Địa chỉ tòa soạn 1015 20th Street – Sacramento, CA. 95811, tel: 916.498.1234 và Editorial Fax: 916.498.7920 hoặc lên Web site: www. newsreview.com trong mục Local Stories. Bài báo có trích dẫn lời của ông Tom Polgar, trùm tình báo CIA ở Sài Gòn lên tiếng chánh thức, Tướng Quang không tham nhũng, không có tiền gởi ngân hàng Thụy Sĩ và những chuyện ly kỳ khác mà người ta áp đặt tham nhũng cho một ông Tướng trẻ và thực tài của QLVNCH trong hơn 40 năm qua. Nhờ có sự xác minh của trùm CIA, Thượng Nghị sĩ, Dân Biểu Liên Bang và có đơn thỉnh nguyện của Trung tá Dan Marvin gởi lên Tổng Thống Bush (Bush cha), Bộ Ngoại Giao Mỹ cho Tướng Quang nhập cảnh và định cư ở Hoa Kỳ thập niên 90. Trước đó Bộ Ngoại Giao Mỹ từ chối cấp Visa cho Tướng Quang với 2 lý do vì ông bỏ trại tỵ nạn ở Texas hơn 1 tháng như quy định và quan trọng ông bị ghép tội tham nhũng nên không được vào nước Mỹ…   Có một lần, cách nay chừng 6 năm khi cựu Trung Tướng Đặng Văn Quang còn ở Atlanta – Georgia, tôi, từ Sacramento có bay sang thăm “thầy cũ” và đem câu hỏi ông bị tố tham nhũng gộc của chế đô VNCH mà CSBV, phe ta Quốc gia và cơ quan truyền thông Mỹ cùng “bề hội đồng” mà nay ông Tướng lại nghèo xơ xác. Trung Tướng Quang nói rằng, thiên hạ kể cả người Việt quốc gia, CSBV và vài nhà báo Mỹ thêu dệt đủ điều nào tôi buôn bán bạch phiến, đầu cơ tích trữ thuốc tây nhập vào để chuyển lên Sài Gòn bán, có tiền đến nhiều triệu dollars Mỹ gởi ngân hàng Thụy Sĩ…Tôi (đại ý lời TT Quang) như cái thùng rác họ liệng vô những gì dơ bẩn của chế độ, tôi không lên tiếng vì tôi tin có Chúa biết là đủ, ngoài ra Tổng Thống Thiệu biết và lương tâm tôi biết, còn người đời nói gì mặc kệ họ. Vì những lời nói chân tình đó của một người thầy cũ mà vợ chồng tôi hết lòng giúp đở mời ông bà Tướng về định cư tại Sacramento, cách nay hơn 3 năm, và chúng tôi tự nguyện lo cho 2 ông bà Tướng đến ngày được Chúa bổ nhậm lần cuối về Vùng 5 Chiến Thuật. 

 Drugs, Corruption, and Justice in Vietnam and Afghanistan:

A Cautionary Tale

By Merle L. Pribbenow
          On October 27, 2009, The New York Times published a dramatic article about  Ahmed Wali Karzai, the brother of the president of Afghanistan, Hamid Karzai. The article alleged that the president’s brother is a major Afghan drug trafficker as well as being a paid asset of the American Central Intelligence Agency (CIA). The byline to the article listed three names, including that of James Risen, the well-known author of State of War, a recent and controversial book about US intelligence operations under the Bush Administration. And like the sensational allegations Risen made in State of War, the Times article was based almost entirely on anonymous sources.
 
    While noting that Ahmed Wali Karzai categorically denied any involvement in drug  trafficking, and that he also denied being a paid agent of the CIA, the article went on to quote unnamed U.S. “military and political” officials as stating that the Agency’s relationship with Karzai had become a source of “anger and frustration among American military officers and other officials of the Obama administration.” While admitting that the evidence against Wali Karzai was “largely circumstantial,” the article charged that Karzai’s alleged involvement in the opium trade meant that Karzai was viewed as a “malevolent force” in Afghanistan (a peculiar and incendiary choice of words). The article also repeated critical comments made by anonymous US Drug Enforcement Agency (DEA) sources about the US government’s failure to take action against Karzai and his alleged narcotics connections.
    As a retired CIA officer who served in South Vietnam, the Times story struck a very familiar chord with me.  Several decades ago, strikingly similar wartime allegations were made against a powerful government official, Lieutenant General Dang Van Quang, who was very close to South Vietnamese President Nguyen Van Thieu. Although I retired from the CIA more than a decade ago and have absolutely no personal knowledge, one way or the other, about the accuracy of the charges made against President Karzai’s brother, I believe that before the press, the American public, and senior Obama administration officials blindly accept as accurate the charges made in the Times article, it might be useful to review the earlier Vietnamese case. Lessons from General Quang’s case may be applicable to the allegations being made about President Karzai’s brother.


 
Virulent Rumors
    General Dang Van Quang was President Thieu’s special assistant for Military and National Security Affairs. He was also Thieu’s friend and confidant, and had a Quang relationship with the South Vietnamese president that stretched back to the earliest days of their military careers.  In the late 1960s and early 1970s, rumors began to circulate in Saigon to the effect that Quang was one of South Vietnam’s leading heroin traffickers; that he was a paid agent of the CIA; and that he was Thieu’s “bag-man” for collecting corruption payments. These rumors, many of which were reportedly being spread by President Thieu’s political opponents (including followers of Vice President Nguyen Cao Ky), were picked up by the Vietnamese and American press and given wide circulation. In addition to being reported in American newspapers and on network television news broadcasts, the charges were also featured prominently in a book entitled The Politics of Heroin in Southeast Asia, a widely-read and still frequently referenced publication written by Alfred W. McCoy, now a professor at the University of Wisconsin in Madison.
 
     As is often the case with rumors, especially hearsay involving people who, like General Quang, work in the shadowy worlds of national security and intelligence, the allegations soon took on a life of their own.  Before long virtually everyone, including most of the American press and even some US embassy officials and DEA officers, began to accept them as true.
    The stories did not go unnoticed by the CIA’s Saigon Station, which was particularly concerned by these claims because of the Station’s close working relationship with General Quang, whom President Thieu had designated as his principal liaison to the CIA. The Station monitored the stories and, as has recently been revealed, at one point prepared and forwarded to Washington a review and assessment of the accuracy of the charges.  The existence of this review, heretofore highly classified, came to light earlier this year in a newly-declassified CIA historical study entitled CIA and the Generals: Covert Support to the Military Government in South Vietnam, written by Agency historian Thomas Ahern.  This declassified document is now available to the general public on the electronic FOIA page of the CIA’s official website.  The brief section of the historical study that discusses the Station’s review of the allegations against General Quang reads as follows:
    After the January 1973 cease-fire agreement, the traditional role of the Vietnam Station as a US channel of influence and information to the Saigon generals increasingly involved it in issues like corruption, South Vietnam’s image in the United States, and the prospects of continued US military aid.  Official corruption had long counted as one of Saigon’s more intractable problems. Among Station contacts, the most controversial in this respect was Lt. Gen. Dang Van Quang, the portly aide to Thieu whom some Americans were inclined to take lightly because of his high-pitched giggle in moments of tension.  Sometime in 1974, hoping to resolve the issue of Quang’s alleged corruption, the COS [Chief of Station] designated [name deleted] to do an all-source review of Quang’s financial probity.  [name deleted] could find no smoking gun, and did a report whose thrust was, if not vindication, at worst “not proven.” [several lines deleted].
    I am familiar with the contents of the Station’s review, since I was its author.  I believed then and I still believe today that, while General Quang was by no means a saint, and although I would never contend he was totally innocent of all the varied charges of corruption leveled against him, Quang was not involved in narcotics trafficking in any way.
 
    I can certainly understand that some might be suspicious of the conclusions reached by me and by the CIA’s Saigon Station.  In order to come to an objective assessment of the accuracy of these conclusions, I believe one should take a careful look at what happened to General Quang after he fled South Vietnam when the communists captured that country in 1975.
 
After the Fall
 
     When Saigon collapsed at the end of April 1975, General Quang fled to the United States with his family. They were initially housed in a camp in Arkansas alongside thousands of other South Vietnamese refugees. Feeling threatened by many of his fellow refugees who believed the rumors about his corruption, and who blamed him for being at least partially responsible for the ruinous defeat, General Quang and his family fled the camp and traveled to Canada to resettle there.
 
    The Canadian government ordered General Quang deported based on the press stories and rumors about him that had found their way into official government reporting channels. However, again based on the ubiquitous stories and rumors about Quang, neither the United States nor any other country would accept him (the communist Vietnamese regime did agree to take him but refused to give the Canadian government assurances that Vietnam would not summarily execute Quang if he was forcibly returned).  As a result, Quang lived in Canada in a state of legal limbo for more than a decade—no legal residence status, no work permit, and with a standing deportation order against him. 
    Despite the stories that he was a multi-millionaire from drug trafficking, in Canada General Quang and his family were destitute.  They lived in cheap, cramped, run-down apartments and Quang supported himself and his family by working in a succession of menial jobs on the fringes of society, including as a janitor and a bottle-washer. On several occasions, he was fired and forced to relocate after Canadian investigative journalists ran him down and wrote “exposés” for their newspapers, each time revealing where this infamous “narcotics trafficker” was working illegally. 
 
    In 1989 Quang was finally allowed to immigrate to the United States. Like many Vietnamese refugees, he settled in southern California.  As had been the case in Canada, his financial situation in America was very modest, and in the early 1990s he supported his family by working as a baggage handler at the Los Angeles International Airport. Currently, according to a December 4, 2008 article in the Sacramento News & Review, General Quang, who has been in poor health for several years, lives in an assisted-living facility in Sacramento, California.
    Quang’s poverty and his many trials and tribulations following the fall of Saigon provide the clearest possible evidence that the widespread (and almost universally- accepted) allegations about him being a multi-millionaire drug king-pin were simply Saigon false.  Both logic and experience indicate that drug lords always squirrel away much of their ill-gotten gains in international bank accounts. If Quang had been,  in fact, as rich and corrupt as the Saigon rumor-mill and the American press portrayed him, he surely would have transferred the bulk of his riches out of South Vietnam during the final weeks of that country’s existence, when it was clear to everyone that a communist victory was inevitable. A number of other South Vietnamese generals and political leaders who fled, including President Thieu, Prime Minister Tran Thien Khiem, and Joint General Staff Commander General Cao Van Vien, were able to live out their long years of exile in the United States in relative comfort, buying homes and living off their “savings” without ever having to work for even a single day to support themselves. While it is notoriously difficult to prove a negative, in this case I believe any objective observer could only conclude that the drug-trafficking charges against General Quang must have been false.
 
    This brings us back to the allegations against the brother of Afghan President Karzai.  Like the allegations against General Quang, these charges seem, on the surface at least, to consist of vague rumors unsupported by solid evidence.  Like the allegations against General Quang, they are being spread mostly by political opponents of Ahmed Wali Karzai’s political mentor (his brother) or by anonymous sources, both Afghan and American. I readily admit that I have no inside information about the truth of the allegations, and for all I know Ahmed Wali Karzai may, in fact, be the scumbag that the article portrays him to be. I understand the need for journalists to get “scoops” and write articles that will get their names on the front page, and I recognize the need for newspapers to make money.
 
    I would, however, respectfully suggest to The New York Times, James Risen, and other reporters and media outlets that responsible journalists—journalists who are as interested in the truth as they are in personal acclaim—should first make an honest effort to dig out some solid evidence to support the claims of their anonymous sources before they proceed to publish these kinds of stories.  I would also suggest that US government officials and the American public should be extremely cautious about accepting any such news stories that are based solely on anonymous sources and vague, unsubstantiated rumors. 
 
    It is too late to undo the harm that was done to General Dang Van Quang by such unfounded rumors. But perhaps his example may help us avoid making similar mistakes in the future.

 
Merle L. Pribbenow, the author of “Limits to Interrogation: The Man in the Snow White Cell,” Studies in Intelligence, is a retired CIA operations officer and Vietnamese linguist who served in Vietnam from 1970 to 1975. This is his second article for Washington Decoded.